Vọng giang nam
Tên khác Tên thường gọi: Vọng giang nam, cốt khí muồng, dương giác đậu, giang nam đầu, thảo quyết minh, sơn lục đậu, dã biển đậu, muồng hòe, muống lá khế, kim đậu tử, kim hoa báo tử, phượng hoàng hoa thảo, lê trà, đại dương giác thái, đầu vựng thái, sơn cà phê, muồng tây Tên khoa học: Cassia occodentalis L. Họ khoa học: họ vang Caesalpniaceae. Lưu ý: cần phân biệt với hạt muồng, thảo quyết minh, đậu ma, giả lục đậu, giả hoa sinh, lạc giời. (Tên khoa học Cassia tora L) Cây vọng giang nam (Mô tả, hình ảnh cây vọng giang nam, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý) Mô tả: Vọng giang nam là một cây thuốc quý, dạng cây nhỏ cao 0.6-1m, thân phía dưới hóa gỗ. Toàn thân nhẵn, không có lông, lá mọc so le, kép lông chim chẵn, lá chét 4-9cm, mọc đối, hình trứng thuôn, không cuống, phiến lá lệch ở phía cuống, toàn lá dài 20cm. Hoa ở kẽ lá hay đầu cành, màu vàng nhạt, mọc thành chùm. Quả giáp, dài 6-10cm, rộng tới 7mm, hơi hình cung, giữa các hạt hẹp lại làm cho quả trông có dáng gồm rất nhiều đốt nối nhau. Hạt dẹt hình trứng dài 4mm, rộng 3mm, xếp chồng lên nhau theo chiều dọc. Vỏ cứng nhẵn bóng. Phân bố: Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Phúc Kiến, Hà Bắc v.v… tại đây có nơi trồng để làm thuốc), Ấn Độ, Braxin (Nam Mỹ) cũng có. Cây mọc hoang khắp nơi tại việt nam. Người ta dùng toàn bộ cây, hay chỉ hái lá, hái hạt về phơi khô. Ở Việt Nam ta chưa chú ý khai thác loài này. Người ta dùng toàn cân, hay chỉ hai lá, hái hạt về phơi khô. Thành phần hóa học: Trong hạt, Heckel đã nghiên cứu thấy: Độ ẩm 8,855%, chất béo và chất màu tan trong clorofoe 1,150%, chất béo và chất màu tan trong ête dầu hoả 1,60%, chất màu và ít tanin 5,022%, glucoza 0,738%, chất pectin, gôm, chất nhầy 15,734%, chất anbuminoit tan 6,536%, chất anbuminôit không tan 2,216%. Theo Lưu Mễ Đạt Phu (1955), trong vọng giang nam có chất antraglucozit gọi là emođin, tanin, chừng 36% chất nhầy, 2,55% chất béo, 4,33% tro. Trong lá cũng có chất emođin, hợp chất hydrat cacbon và flavonozit như vitexin. Toàn cây có tanin, chất béo và chất nhầy. Trong hạt có physcion C16H1205 (J. Am. Pharm. Assoc., 1957, 46, 271; c. A. 1969, 70, 84918m) physcion-1-glucozit, C22H22O10 (Experientiơ, 1971, 43), l,8-dihydroxy-2-metylanthraquinon, 1,4,5- trihydroxy-3-metyl-7-metoxy anthraquinon (.Experientia 1974, 30, 850), N-metylmorpholin (C.A, 1971, 74, 50512s) galactomannan (J. chem. 1973, 11, 1134). Trong rễ có cassiollin C17H12O6, chrysophanol C15H10O4, xanthorin, 1,4,5-trihydroxy-2 metoxy – 7methylanthraquinon,Cl6H1206. islandixin -1,4,5 trihydroxy-2- metylanthraquinon C15H10P5 1,4,5,- trihydroxy -7 metylanthraquinon helminthosporin C15H10O5 (Indian J. Chem., 1974, 12, 1042). Trong lá có dianthronic heterozit (C. A., (969, 70, 84918m). Trong vỏ quả có C-glucozit của apigenin (C. A., 1969, 70, 84918m). Tác dụng dược lý Đang tiếp tục cập nhật Vị thuốc vọng giang nam (Tính vị, quy kinh, công nghệ, liều dùng) Tính vị Vọng giang nam có vị mặn, tính bình, có độc. Tác dụng thanh can, ích thận, khử phong, sáng mắt, nhuận tràng, thông tiện. Dùng chữa thong manh có màng, mắt đỏ, nhiều nước mắt, đầu nhức, đại tiện táo bón. Người ỉa lỏng không dùng được. Hạt thanh nhiệt, làm sáng mắt, tiêu viêm, làm dễ tiêu hoá, nhuận tràng. Lá và thân tiêu viêm, giải độc. Rễ khư phong thấp. Quy kinh Vào kinh can, thận Công dụng: Chữa táo bón, đầy bụng, ăn không tiêu. Cách dùng – liều dùng: Dùng 10-20g/ngày (sao vàng), dạng thuốc sắc. Tác dụng chữa bệnh của vị thuốc vọng giang nam Chữa huyết áp cao, đau đầu, táo bón: Dùng hạt vọng giang nam 15-30g rang và xay, nấu nước uống. Chữa đau đầu kéo dài Lấy 30g lá vọng giang nam, 240g thịt lợn nạc, thêm muối, nấu ăn như canh. Tham khảo Kiêng kỵ Người tiêu chảy không dùng Phụ nữ có mang không nên dùng. Vọng giang nam được sử dụng ở nhiều nơi Hiện nay nhân dân dùng vọng giang nam làm thuốc chữa bệnh đau mắt, người ta cho rằng uống vọng giang nam mắt sẽ sáng ra, còn dùng ngâm rượu và dấm để chữa bệnh hắc lào, bệnh chàm mặt ở trẻ em. Qua nghiên cứu hiện nay người ta dùng thảo quyết minh làm thuốc bổ, lợi tiểu và đại tiện, ho, nhuận tràng và tẩy, cao huyết áp, Nhức đầu, hoa mắt, uống thảo quyết minh, đại tiện dễ dàng mà không đau bụng, phân mềm không lỏng. lá có thể dùng thay vị phan tả diệp. Vọng giang nam không chỉ được dùng ở các nước châu Á, mà còn được dùng ở các nước khác. Theo E. Perrot, hạt Cassia ocidentalis tươi có độc do một chất toxanbumin (phytotoxin) và cryzarobin (chrysarobin) là một antraglucozit. Khi rang lên hạt sẽ hết độc và được dùng ở châu Phi uống nước thay cà phê gọi là cà phê của người da đen, mùi thơm dễ chịu. Nếu dùng tươi thì có đệ Thực tế trong năm 1913 ở ngoại ô Paris (thủ đô nước Pháp) đã xảy ra những vụ ngộ độc ngựa ( cho ăn hạt này lẫn với yến mạch (avoine). Năm 1924 lại xảy ra vụ ngộ độc nữa cũng do cho ngựa ăn hạt không rang. Khi bị ngộ độc thì viêm ruột,’ viêm màng óc. Những chất độc khi rang lên sẽ phá huỷ cho nên rang lên mới dùng được. Một số tác giả châu Âu khác (Deliouxc Savignac, Dubonnex v.v…) đã nghiên cứu tác dụng chữa bệnh của hạt vọng giang nam mọc ở các nơi khác đã xác nhận hạt này có tác dụng chữa sốt, điều kinh. Tại các nuớc châu Phi, người ta dùng lá, rễ và hạt.