Đậu cọc rào
Tên khác Tên thường gọi: ba đậu mè, dầu lai, ba đậu nam, dầu mè, cốc dầu, vong đâu ngô, đồng thụ lohong, kuang, vao (Campuchia), nhao ( Viên tian), grand pignon d’Inde, fève d’efer. Tên khoa học: Jatropha curcas L. (Curcas purgans Medik) Họ khoa học: Thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae. Cây đậu cọc rào (Mô tả, hình ảnh cây đậu cọc rào, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý…) Mô tả Cây đậu cọc rào là một cây thuốc quý. Đậu cọc rào là một cây nhỏ cao 1-5m, cành to mẫm, nhẵn, trên có những vầu nổi lên do sẹo của lá, khi bị chặt sẽ chảy ra một thứ nhựa mủ trắng. Lá đơn, xẻ chân vịt, chia làm 3-5 thuỳ nông, dài 10-13cm, rộng 8-11cm. Hoa màu vàng, nhỏ, cùng gốc, mọc thành chuỳ tận cùng hay ở nách lá, hoa đực mọc ở đầu lá các nhánh với cuống ngắn có khuỷu. Quả nang hình trứng, đ hạt hày đổ nhạ lúc đầu mẫm sau thành khô, dai nhẵn, mở theo ba mép. Hạt 3, có áo hạt, hình trứng dài 2cm, rộng 1cm, nhẵn, màu đen nhạt Bộ phận dùng Lá và dầu hạt – Folium et Oleum Jatrophae. Phân bố, thu hái và chế biến Cây nguồn gốc châu Mỹ, sau được di thực đi khắp những vùng nhiệt đới. Rất phổ biến ở Việt Nam, Lào, Campuchia thường trồng làm hàng rào do rất dễ trồng: Chỉ cần dâm cành hay bằng hạt. Mọc rất nhanh, nhưng vì năng suất hạt tháp cho nên muốn thu hoạch nhiều hạt phải trồng nhiều cây. Có những nước người ta dùng cây này để trồng trên đồi trọc, vừa nhanh có cây vừa thu hoạch được nhiều hạt để lấy dầu. Người ta dùng nhựa mủ, hạt, lá, cành cây và rễ làm thuốc. Hạt còn dùng ép dầu. Thành phần hoá học Trong hạt đậu cọc rào có 20-25% dầu béo, protein và chất nhựa. Theo Falck thì trong hạt đậu cọc còn chứa một phytotoxin gọi là curxin tuy không gây hiện tượng vón hồng cầu nhưng làm tổn thương các mạch máu và có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Đậu cọc rào không màu hay hơi vàng, không mùi, trong ở nhiệt độ thường. Lạnh ở 90C sẽ để lắng đông stearin và đông đặc hoàn toàn ở nhiệt độ 00C. Tỷ trọng 0,915 ở 150C. Dầu thắp rất tốt vì không có khói, rất thích hợp với việc chế biến xà phòng không kích ứng đối với da. Tác dụng dược lý Hạt làm co thắt cơ bụng mạnh (gây đau bụng) gây nôn sau 30 phút, thường dùng làm thuốc sổ Làm tan máu ứ, tiêu sưng, cầm máu, chống ngứa. Dầu hạt gây nôn và tẩy mạnh, giải độc, sát trùng. Nhựa mủ cũng có tác dụng như dầu. Cây có độc đối với cá. Vị thuốc đậu cọc rào (Tính vị, quy kinh, công dụng, liều dùng) Tính vị Lá có vị đắng, se tính mát Hạt chứa dầu Công dụng Lá thường được dùng trị 1. Chấn thương bầm giập, vết thương chảy máu, bong gân; 2. Mẩn ngứa, eczema, vẩy nến; 3. Phong hủi; 4. Nhiễm trùng trichomonas ở âm đạo; 5. Loét mạn tính. Ở Ấn Độ, người ta dùng lá sắc uống và làm thuốc đắp vào vú gây tiết sữa và làm sung huyết. Dầu hạt dùng chữa táo bón và bôi trị ghẻ lở, mụn nhọt, rò, bệnh về tóc. Nhựa mủ dùng bôi trị ghẻ eczema, nấm tóc, các vết loét và dùng đánh lưỡi cho người ốm. Cũng dùng để chữa vết thương. Dùng lá giã đắp hoặc chiết dầu từ hạt để xoa, rịt bên ngoài. Liều dùng Dùng từ 6-7g. Dùng nhiều có thể gây ngộ độc Tác dụng chữa bệnh từ vị thuốc đậu cọc rào Chữa loét mạn tính: Dùng dầu hạt lẫn với vaselin làm pomat bôi. Chữa Mẩn ngứa, eczema: Dùng lá Dầu mè tươi, giã nát và rịt. Tham khảo Đậu cọc rào với liều thấp tác dụng tẩy mạnh 6 đến 7g có tác dụng tẩy mạnh bằng 45g dầu thầu dầu. Nhân đậu cọc rào cũng có tác dụng tẩy mạnh: Trộn ba nhân với sữa cho uống gây tẩy rất mạnh. Người ta còn đem rang hạt, tán thành bột ngâm trong rượu cho uống để tẩy. Khi mới bị ngộ độc, thấy cổ họng rát bỏng, sau đó ở dạ dầy, rồi Chóng mặt, nôn mửa. ỉa chảy, hôn mê và chết. Tại châu Mỹ và Malaixia người ta đã chứng kiến những vụ đầu độc bằng đậu cọc rào: Tán hạt thành bột rồi rắc lên thức ăn. Người ta còn dùng dầu để làm ra thai hoặc uống hoặc xoa vào bụng. Nhựa mủ: Được bôi lên vết thương hay vết loét, khi khô sẽ thành một màng che như kiểu màng collodion. Có khi người ta dùng để đánh lưỡi những người ốm: Chấm nhựa mủ vào miếng gạc, rồi dùng gạc này để đánh lưỡi. Lá đậu cọc rào: Giã nát đắp lên bụng để gây tẩy cho trẻ em,có khi còn được dùng chữa Thấp khớp, đôi nơi dùng nấu nước tắm ghẻ. Từ là và cành người ta còn chiết được chất màu dùng nhuộm bóng thành màu nâu rất bền màu Rễ dùng chữa tê liệt, bại liệt Ghi chú: Hạt rất độc, dễ gây ngộ độc nguy hiểm; khi dùng phải thận trọng. Liều độc thay đổi tuỳ theo từng người nhưng thường với liều 25-30 hạt có thể làm chết người.