Thường sơn
Tên khác Tên thường gọi: Thường sơn, hoàng thường sơn, thục tất, áp niệu thảo, kê niệu thảo (Những cây thuốc, vị thuốc Việt Nam), Hỗ thảo (bản kinh) Hằng sơn, thất diệp (Ngô phổ bản thảo) kê cốt thường sơn (Đào Hoằng Cảnh) Phiên vỵ mộc (hầu ninh cấp dược phổ) Tên tiếng Trung: 常山 Tên khoa học: Dichroa febrifuga Lour. Họ khoa học: Thuộc họ thường sơn Saxifeafaceae. Cây thường sơn (Mô tả, hình ảnh cây thường sơn, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý…) Mô tả cây Thường sơn là 1 cây thuốc quý. Thường sơn là một loại cây nhỡ cao 1-2m, thẫn rỗng, dễ gẫy, vỏ ngoài mẫn màu tím. Lá mọc đối hình mác hai đầu nhọn, dài 13-20cm, rộng 35-90mm, mép có răng cưa mặt trên xanh, mặt dưới tím đỏ, không có lông hoặc hơi có lông. Hoa nhỏ màu xanh lam hay hồng, mọc thành chùm nhiều hoa mọc ở kẽ lá hay đầu cành. Quả mọng khi chín màu xanh lam, đường kính 5mm, một ngăn, hạt nhiều nhỏ hình lê, có mạng ở mặt dài không đầy 1mm. Phân bố, thu hái, chế biến Cây thường sơn mọc hoang rất nhiều ở các tỉnh miền rừng núi nước ta, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang… Mùa thu hái vào các tháng 8-10 người ta đào rễ về, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con, phơi hay sấy khô. Nếu dùng lá, hái quanh năm nhưng tốt nhất vào lúc cây sắp và đang ra hoa. Hái về rửa sạch phời khô có thể dùng tươi. Bào chế Thường sơn: Chọn bỏ tạp chất, lấy nước ngâm rửa, vớt ra, nhuận cho kỹ rồi cắt miếng phơi khô. Tửu thường sơn: lấy thường sơn miếng dùng rượu ngon đảo đều, thấm rượu rồi đặt trong nồi dùng lửa nhỏ để sao đến lúc hiện ra sắc vàng thì lấy ra để nguội (10kg thường sơn miếng dùng rượu ngon 1-2l rượu ngon) Thố thường sơn: lấy thường sơn miếng dùng dấm gạo sao như cách trên Thường sơn dùng sống thường gây nôn, khi ngâm và sao với dấm, rượu không còn tác dụng gây nôn nữa. Thành phần hóa học Hoạt chất là các alcaloid (với lượng nhỏ ở trong rễ 0,1-0,15%), a- b- g-dichroine, dichroidin, 4-quinazolone (ceto-4-dihydroquinazolin), dichrin A hay umbelliferone, dichrin B. Febrifugin (dichroin B = b- và g-dichroin) và isofebrifugin (dichroin A = a-dichroin) có tác dụng độc đối với ký sinh trùng sốt rét Plasmodium như là quinin. Tác dụng dược lý Thường sơn đã được nhiều tác giả nghiên cứu về mặt dược lý. Tác dụng chữa sốt rét: Cao thường sơn trên lâm sàng có tác dụng rõ rệt chữa sốt rét thường nhưng có nhược điểm là gây nôn làm cho bệnh nhân khó chịu. Tác dụng chữa sốt: Năm 1947 Trương Xương Thiệu và Hoàng Kỳ Chương đã xác nhận thuốc thường sơn thôchế có tác dụng chữa sốt, nhưng ancaloit toàn bộ của thường sơn không có tác dụng chữa sốt. Tác dụng trên bộ máy tuần hoàn và hô hấp: Năm 1945 Hồ Thành Nhu va Lý Hồng Hiến báo cáo ancaloit của thường sơn có tác dụng hưng phấn đối với tim ếch và tim thỏ, nhưng chất R212 lại có tác dụng ức chế đối với tim ếch cô lập. Độc tính: Năm 1947 Trương Xương Thiệu và Hoàng Kỳ Chương đã xác định nửa liều gây chết LD-50 của dicroin trên 1kg gà là 20mg, chuột nhắt là 18.5mg, gà nhỏ là 7.5mg, một giống gà nhỏ khác là 10mg. Vị thuốc thường sơn (Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh) Cây thường sơn cho ta các vị thuốc sau đây: Vị thường sơn là rễ phơi hay sấy khô của cây thường sơn. Lá và cành phơi hay sấy khô được gọi là thục tất. Trên thực tế ở Việt Nam người ta ít dùng rễ hoặc dùng cả rễ và lá đều gọi là thường sơn. Tính vị Vị đắng, tính hàn có độc Lá, cành thường sơn (thục tất) vị cay, tính bình, có độc Quy kinh: Vào kinh phế, tâm, can Công dụng: Thổ đờm, triệt ngược, thanh nhiệt hành thủy. Dùng chữa sốt rét mới bị hay đã lâu ngày, lão đờm tích ẩm, dẫn tới đờm đi lên sinh nôn mửa. Liều dùng, cách dùng: Liều dùng trung bình 6-12g dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các loại thuốc khác. Tác dụng chữa bệnh của vị thuốc thường sơn Thường sơn triệt ngược chữa các chứng sốt rét: Thường sơn 6g, binh lang 2g, thảo quả 1g, cát căn 4g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày. Theo kinh nghiệm hễ sốt rét nhiều, rét ít thì người ta tăng liều cát căn lên tới 10g, ngược lại nếu rét nhiều sốt ít thì người ta tăng liều thảo quả lên tới 3-4g. Đơn thuốc này ít gây nôn. Chữa sốt rét và sốt thường: rễ thường sơn 10g, cam thảo 3g, nước 600ml, sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày, đơn thuốc này dễ gây nôn. Cao thường sơn chữa sốt rét: Rễ thường sơn 12g, ô mai 3 quả, táo đen 3 quả, cam thảo 3 nhát, sinh khương 3 miếng. Thêm nước vào sắc kỹ, lọc và cô đặc còn 3g, người lớn ngày uống 1-2 lần, mỗi lần 3g, không gây nôn. Sốt rét cơn cách nhật: Thường sơn chế, Mần tưới, Chỉ thiên, Trần bì, Hoắc hương, mỗi vị 12g, sắc uống (Hành giản trân nhu). Chữa ho, ngộ độc thức ăn: Thường sơn 3-5g, Cam thảo 10g. Đun sôi uống. Nếu chữa ngộ độc có thể dùng lá tươi giã nhỏ với rễ Cỏ lá tre, lá găng, lá Đơn răng cưa, thêm nước, gạn uống. Ngày 3-4 lần. Tham khảo Kiêng kỵ Không dùng cho phụ nữ có thai và người gầy kém sức. Không nên ăn Hành trong khi đang dùng thuốc. Ứng dụng lâm sàng Dùng chữa sốt rét Chữa nhiễm trùng roi: Dùng thường sơn 2 đồng cân sắc uống, mỗi ngày uống 1 lần, uống liền 7 ngày, từng chữa 1 giường bụng nước gan xơ cứng kiểu tĩnh mạch cửa kiêm bệnh nhiễm trùng roi. Sau khi uống thuốc ỉa sệt, bụng chướng mọi chứng cải thiện rõ rệt, đại tiện kiểm tra chuyển âm tính, quan sát 3 tháng chưa thấy tái phát lại.