Canh-ki-na
Tên khác Tên thường gọi: Tên khoa học của Canhkina: Canhkina đỏ (Cinchona succirubra Pavon), Canhkina vàng (C. calisaya Weddell), Canhkina xám (C. officinalis L.). Họ khoa học: họ Cà phê (Rubiaceae Cây canh ki na (Mô tả, hình ảnh cây canh ki na, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý…) Mô tả Chi Cinchona L. gồm tới 40 loài. Chúng đều là những cây gỗ có lá mọc đối, có lá kèm, có hoa đều, trắng hay hồng, mẫu 5 và tập hợp thành cụm hoa hình xim. Tất cả các loài Cinchona đều có xuất xứ từ sườn đông của dãy núi Andes, ở phía này hay phía kia của xích đạo, thuộc các nước Colombia, Ecuador, Pêru, Bolivia ở độ cao từ 1000m tới 3000m, tức là ở những miền có mưa nhiều, độ ẩm cao, nhiệt độ trung bình và tương đối ổn định. Những loài được nói đến là: – Canhkian đỏ – Cinchona succirubra Pav. (C. pubescens Vahl) xuất xứ ở Ecuador là loài có thân lớn và thường được sử dụng làm gốc ghép. – Canhkina vàng – Cinchona calisaya Weddell xuất xứ ở Bolivia và nam Pêru, được trồng nhiều ở Java. – Canhkina xám – Cinchona officinalis L., xuất xứ từ phía bắc Colombia tới Pêru. – Canhkina thon – Cinchona ledgeriana Moens có khi được xem như là một loài lai, có xuất xứ ở Bolivia và được trồng sớm nhất ở Inđônêxia. Loài này đã được tuyển chọn qua một thời gian dài và hiện được trồng ở nhiều nước châu Phi nhiệt đới cüng như nhiều đồn điền ở châu Mỹ. Bộ phận dùng: Vỏ thân, vỏ cành, vỏ rễ phơi, sấy khô của nhiều loài Canhkina như: Canhkina đỏ (Cinchona succirubra Pavon), Canhkina vàng (C. calisaya Weddell), Canhkina xám (C. officinalis L.), họ Cà phê (Rubiaceae). Phân bố: Ở nước ta, Canhkina được đem trồng thí nghiệm từ những năm 1871 ở một số nơi nhưng không thành công. Cho đến sau Đại chiến thế giới thứ nhất, A Yersin thí nghiệm trồng ở cao nguyên Lang Bian (vùng Xuân Thọ hiện nay) và ở vùng Hòn Bà ở Khánh Hoà rồi di chuyển tới Di Linh, Đơn Dương thì thành công. Năm 1927 có trại nghiên cứu trồng Canhkina ở Thủ pháp, vùng chân núi Ba Vì. Cho đến trước Đại chiến thế giới thứ hai, có năm sản lượng Canhkina thu được lên đến 30 ngàn tấn. Do chiến tranh mà việc phát triển trồng Canhkina bị đình trệ và bị khai thác kiệt quệ. Cho đến năm 1978, chỉ còn lại một số nơi có Canhkina như Lâm Đồng (Xuân Thọ, Tà Nung ở Đà Lạt, Xuân Sơn ở Đơn Dương. Lán tranh ở Đức Trọng, Dinh trang thượng ở Di Linh), Đắc Lắc (Đắc Nông) và Gia Lai (Biển Hồ, Sa Thầy). Ở miền Bắc Việt Nam, tại tỉnh Hà Tây (vùng Thủ Pháp) cho đến năm 1958, chỉ còn sót lại vài chục cây, nhưng trong khoảng 1960-1970, ta đã khôi phục lại và tiếp tục nghiên cứu phát triển Canhkina, đưa diện tích tại đây lên tới 60 ha. Hiện nay, ta đang nghiên cứu phát triển trồng Canhkina ở Lâm Đồng. Loài được trồng chủ yếu là Canhkina thon. Nhân giống bằng gieo hạt. Canhkina trồng sau 3-4 năm đã có thể cho vỏ, nhưng tốt nhất là sau 7-10 năm thì thu hoạch vỏ tốt nhất. Bóc vỏ vào mùa thu hay đầu xuân. Hàm lượng hoạt chất trong cây tuỳ thuộc vào loài trồng và chất đất ở các độ cao khác nhau. Khi chặt cây, cành để bóc vỏ, cần chừa lại gốc để cây tạo ra thân cành mới. Tác dụng dược lý: Các hoạt chất trong Canhkina có tác dụng trị bệnh sốt rét, quan trọng nhất là quinin. Quinin là một chất độc đối với tế bào, có tác dụng đối với các loại đơn bào; nó tác dụng trên những dạng vô tính và ký sinh trùng; nó diệt giao tử hơi yếu đối với các dạng Plasmodium vivax và P. malariae. Còn có những tác dụng khác là ức chế trung tâm sinh nhiệt nên dùng làm thuốc giảm sốt; tác dụng chống nhiễm trùng, kích thích nhẹ lên hệ thần kinh, ức chế hoạt động của tim (cüng tương đương với quinidin nhưng yếu với liều diệt ký sinh trùng), tác dụng kích thích tử cung, tác dụng đối với thính giác, thị giác và tiêu hóa, tác dụng gây xơ cứng. Các alcaloid khác có tác dụng chữa sốt, sốt rét nhưng k m hơn và có tác dụng hợp đồng. Nói chung, Canhkina bổ, lợi tiêu hoá, hạ nhiệt, chống nhiễm trùng, chống ký sinh trùng, hàn liền sẹo. Thành phần hoá học: Vỏ Canhkina giàu tanin catechic (3 tới 5%), khi oxy hoá sẽ thành phlobaphen màu đỏ của canhkina. Còn có ít tinh dầu, acid hữu cơ (acid quinic) và một heterosid triterpenic (quinovosid). Trong vỏ có nhiều alcaloid có thể đạt tới 15% trọng lượng của vỏ. Các alcaloid chính tạo thành 2 cặp đồng phân lập thể: một bên là quinin và quinidin, một bên là cinchonin va cinchonidin. Quinin và cinchonidin quay trái, còn quinidin và cinchonin quay phải. Quinin và quinidin sẽ biến đổi thành quinicin (hay quinotoxin). Các alcaloid chính này đều kèm theo những alcaloid có hàm lượng thấp. Trong vỏ của Canhkina đỏ, có tỷ lệ alcaloid toàn phần là 3-8% và hàm lượng quinin trong đó chỉ chiếm ít hơn 50%; còn trong vỏ Canhkina thon, tỷ lệ alcaloid toàn phần tới 15% và hàm lượng quinin trong đó lên tới 80-90%. Vị thuốc canh ki na (Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh…) Công dụng: Chiết quinin và các alcaloid khác làm thuốc điều trị sốt rét. Vỏ cây làm thuốc hạ sốt, thuốc bổ kích thích tiêu hóa, điều trị các vết thương, vết loét. Cách dùng, liều lượng: Uống dạng bột, cao, siro, rượu bổ. Dạng bột: 4-12g. Cồn: 2 – 15g. Siro: 20 – 100ml mỗi ngày. Quinin chữa sốt rét 0,5g/lần, 1-1,5g/ngày. Rượu bổ Canhkina, chai 650ml, kích thích tiêu hóa (Glycosid đắng), ngày uống 2 lần, mỗi lần 30ml trước mỗi bữa ăn. Tham khảo Canh-ki-na phiên âm từ tiếng pháp Quinquina, xuất phát từ Nam Mỹ. Năm 1638 nữ chúa Delchincon vợ của một Phó vương nước Pê-ru được chữa khỏi bệnh sốt rét bằng vỏ cây này và bà đã đặt tên khoa học cho nó là Cinchona. Là một loài cây thuộc họ cà-phê, cây canh-ki-na có 3 loại đỏ, vàng và xám, sống ở vùng Nam Mỹ. Là một loài cây thân gỗ, cây canh-ki-na cao khoảng 15 – 20 m, lá có màu xanh lục và mọc đối có cuống, 2 lá kèm thường rụng sớm, phiến lá nguyên hình trứng, gân lá hình lông chim, hoa mọc thành chùm 5 cánh đều nhau và có màu hồng trắng nhạt. Ban đầu, do chưa biết loại cây này có khả năng chữa khỏi bệnh sốt rét, người dân Nam Mỹ sống ở ven hồ có cây canh-ki-na mọc, mỗi khi bị bệnh thường ra lấy nước ở hồ về uống đều thấy khỏi. Lần lần, tác dụng “thần kỳ” của cây canh-ki-na được phát hiện và lưu truyền rộng rãi; việc giữ gìn, chăm sóc giống cây quý cũng được người dân Nam Mỹ quan tâm. Về sau, nhiều nhà y học các nước Mỹ, Tây-ban-nha, Pê-ru và Pháp bắt tay tìm hiểu, nghiên cứu cây canh-ki-na và ứng dụng nó vào y học, cũng như lấy giống cây này nhân rộng ra khắp thế giới. Qua nhiều năm thực nghiệm lâm sàng, giới khoa học đã phát hiện ra trong vỏ và lá cây canh-ki-na có chứa thành phần chính là chất quinine (ki-ninh) rất đắng, loại hoạt chất này có tác dụng chống lại ký sinh trùng sốt rét rất hiệu quả và tên của nó chính thức được đưa vào danh sách dược liệu dùng để chữa cho người bệnh. Ngoài công dụng làm thuốc điều trị bệnh sốt rét, cây canh-ki-na còn được dùng làm thuốc ngâm rượu uống bổ máu. Năm 1925, người Pháp đã đưa cây canh-ki-na vào Việt Nam trồng ở tỉnh Lâm Đồng, rồi sau đó đem ra trồng ở Ba Vì của Miền bắc nước ta, với mục đích chữa bệnh cho quân đội Pháp. Từ đó cây canh-ki-na đã chính thức có mặt ở Việt Nam và được các thầy thuốc biết đến với nhiều tên gọi khác nhau: cây ki-ninh (quinine), cây sốt rét, cũng như lấy nó bào chế làm thuốc chữa bệnh cho người dân. Phân biệt: Cây Ô môi (Cassia fistula Lin. = Cassia grandis L. f.) được trồng ở nhiều nơi cüng được gọi là Canh ki na, cơm quả làm thuốc nhuận, tẩy, cần phân biệt tránh nhầm lẫn. Thông tin này chỉ dành cho nhân viên y tế tham khảo, người bệnh không được tự ý áp dụng phương pháp này để chữa bệnh.